Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thực chất cũng là một hợp đồng kinh tế. Là sự cam kết giữa hai bên mà trong đó bên nhận bảo hiểm có trách nhiệm và nghĩa vụ chi trả STBH cho bên tham gia khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với người được bảo hiểm; còn bên tham gia bảo hiểm có trách nhiệm,nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm theo như quy định trong hợp đồng đã được pháp luật thừa nhận. Như vậy, trong mỗi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đều có hai bên:

  • Bên nhận bảo hiểm hay doanh nghiệp bảo hiểm:
  • Có trách nhiệm, nghĩa vụ chi trả STBH theo đúng như quy định trong hợp đồng. Đây là trách nhiệm lớn nhất mà doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện.
  • Bên nhận bảo hiểm không có quyền truy đòi phí bảo hiểm dưới hình thức khiếu nại nếu như bên tham gia không có khả năng đóng phí.
  • Các sự kiện bảo hiểm liên quan đến cả hai bên trong hợp đồng thường bao gồm: Tử vong, đáo hạn hợp đồng, sống đến độ tuổi nhất định, một số trường hợp khác liên quan đến điều khoản bổ sung…
  • Bên tham gia bảo hiểm: Có thể có 3 người sau đây:
  • Người được bảo hiểm: Là người mà tính mạng, tình trạng sức khỏe cũng như những sự kiện có liên quan đến tuổi thọ của họ được bảo hiểm. Người được bảo hiểm có thể là những người đã trưởng thành, có đủ năng lực pháp lí để tự kí hợp đồng cho chính mình và cũng có thể là những người chưa đủ tuổi thành niên phải giao tên của mình cho người khác đi kí kết hợp đồng bảo hiểm theo đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, người được bảo hiểm có được tham gia hay không còn phụ thuộc vào kết quả đánh giá rủi ro của các nhà bảo hiểm.
  • Người tham gia bảo hiểm: Là người trực tiếp đứng ra yêu cầu bảo hiểm, thỏa thuận và kí kết hợp đồng đồng thời thực hiện nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm. Tuy nhiên người tham gia bảo hiểm phải có đầy đủ năng lực hành vi pháp lí mà nhà nước quy định.
  • Người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm: Là người được hưởng STBH hoặc các khoản trợ cấp do công ty bảo hiểm thanh toán như đã nêu trong hợp đồng. Người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm do người tham gia bảo hiểm chỉ định. Trong nhiều trường hợp cần chỉ định người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm thứ nhất và người tiếp theo sau để đề phòng trường hợp khi người được hưởng quyền lợi đầu tiên bị chết trước người được bảo hiểm.

– Hiệu lực của hợp đồng: Thường được tính từ ngày nộp phí bảo hiểm đầu tiên kể cả theo tháng, quí, năm. Ngày nộp phí bảo hiểm đầu tiên phải được ghi chép thống nhất và chính xác trong cả hóa đơn thu phí và cả giấy yêu cầu bảo hiểm.

– Tuổi của người được bảo hiểm hay người tham gia bảo hiểm căn cứ vào tuổi trong giấy khai sinh, chứng minh thư, hộ chiếu hay hộ khẩu. Căn cứ vào ngày sinh trong các loại giấy tờ này để tính độ tuổi được nhận bảo hiểm. Thực tế, thường có hai cách xác định tuổi:

Xác định tuổi gần với ngày sinh nhật:Ví dụ, ngày sinh 06/03/1988.

Ngày được nhận bảo hiểm 26/02/2008. Như vậy, người này có độ tuổi là 20 tuổi khi tham gia bảo hiểm hoặc được bảo hiểm. Cách này tuy đơn giản nhưng không chính xác, do vậy ít được các công ty bảo hiểm sử dụng.

Xác định tuổi theo ngày sinh nhật ngay sau ngày bắt đầu được nhận bảo hiểm. Đây là cách tính phổ biến nhất. Ví dụ, ngày sinh 10/03/2003

Ngày được nhận bảo hiểm 20/03/2008 thì em bé này có độ tuổi là 6 tuổi khi được nhận bảo hiểm ( tính theo sinh nhật năm 2009).

  • Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thể được chuyển đổi từ loại này sang loại khác. Việc chuyển đổi này hoàn toàn do hai bên thỏa thuận.
  • Những rủi ro loại trừ trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ: Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ không chịu trách nhiệm chi trả trong những trường hợp sau đây:

Người được bảo hiểm tự tử.

Người được bảo hiểm bị kết án tử hình.

Người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm cố ‎ý gây ra tử vong cho người được bảo hiểm. Tuy nhiên, khi có nhiều người được thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm mà những người khác không phải là tội phạm hay tòng phạm thì vẫn được hưởng STBH mà công ty chi trả.

Trường hợp, chiến tranh , nội chiến gây ra cái chết cho người được bảo hiểm.

  • Nhà bảo hiểm không có quyền đơn phương hủy bỏ hợp đồng nếu như chưa thông báo cho bên tham gia biết. Nhà bảo hiểm có quyền tự động thanh toán STBH giảm nếu như phát hiện tuổi của người được bảo hiểm lớn hơn tuổi thực hoặc trong thời gian thực hiện hợp đồng vì một l‎ do nào đó bên tham gia không có khả năng đống phí trong một thời gian nhất định.
  • Giá trị giải ước( giá trị hoàn lại) là số tiền người tham gia bảo hiểm được nhận theo qui định trong điều khoản của hợp đồng khi người tham gia bảo hiểm yêu cầu hủy bỏ hợp đồng hoặc hợp đồng chấm dứt trước hạn. Trong hợp đồng luôn chỉ rõ về giá trị giải ước từng năm một cách đầy đủ.
  • Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thể dùng làm vật thế chấp để vay vốn hoặc người tham gia có thể ứng trước một khoản tiền nhất định giống như việc công ty bảo hiểm cho họ vay tiền. khoản tiền ứng trước này các công ty thường lấy trong phần dự phòng phí bảo hiểm.

Khi nghiên cứu và tìm hiểu về sản phẩm BHNT, khách hàng cần nghiên cứu thật kỹ lưỡng những điểm trên để có thể đưa ra những quyết định đúng đắn nhằm kí kết hợp đồng BHNT phù hợp với nhu cầu và mong muốn của mình